Thứ Hai, 14 tháng 2, 2011

QUY TRÌNH TÍNH TOÁN VÀ THIẾT KẾ

I- NGUYÊN TẮC CHUNG
I.1 - Cọc tràm giống như các loại cọc gỗ khác dùng thích hợp và có hiệu quả để xử lý nền đất yếu dưới các công trình dân dụng và công nghiệp cũng như các công trình khác với quy mô vừa và nhỏ khi ứng suất trung bình dưới đế móng không vượt quá 0,8 kG/cm2.
I.2 - Các loại đất yếu dùng thích hợp cho cọc tràm và móng cọc tràm có thể bao gồm các loại cát nhỏ,
cát bụi ở trạng thái rời bão hòa nước, các loại đất dính ( cát pha sét, sét pha cát và sét ) ở trạng thái dẻo mềm, dẻo chảy và chảy, các loại đất bùn, đất than bùn, và than bùn.
I.3 - Tùy theo trị số và tính chất tác dụng của tải trọng công trình cũng như tùy theo sơ đồ địa chất cụ
thể ở khu vực xây dựng mà lựa chọn đường kính, chiều dài và mật độ thích hợp.
Đường kính cọc tràm thường dùng từ 8cm đến 10cm, chiều dài cọc tràm nên chọn từ 3m đến 5m, mật độ cọc tràm ( số cọc/m2 ) tùy theo loại đất và trạng thái của nó cũng như độ lớn của tải trọng mà có thể sử dụng từ 16 cọc/m2 đến 49 cọc/m2.
Thông thường, đối với các loại cát nhỏ, cát bụi ở trạng thái rời và bão hòa nước có thể sử dụng
mất độ từ 16 cọc/m2 đến 25 cọc/m2, đối với các loại cát pha sét và sét pha cát ở trạng thái dẻo mềm,
chảy dẻo hoặc chảy có thể sử dụng từ 25 cọc/m2 đến 36 cọc/m2, còn đối với các loại sét ở trạng thái
chảy và các loại bùn sét, đất than bùn và than bùn có thể sử dụng từ 36 cọc/m2 đến 49 cọc/m2 .
I.4 - Đỉnh cọc tràm khi thiết kế luôn luôn phải bảo đảm nằm dưới mực nước ngầm thấp nhất và nước ngầm không có tính chất xâm thực.
Ở những nơi có thủy triều lên xuống thất thường, khi thiết kế phải đảm bảo định cọc tràm ở dưới mực nước xuống thấp nhất.
I.5 - Gỗ tràm dùng làm cọc phải có tuổi từ 6 năm trở lên và đường kính ngọn khi khai thác không được nhỏ hơn 4cm khi chiều dài cọc tràm lớn hơn 4m và không nhỏ hơn 5cm khi chiều dài cọc tràm nhỏ hơn 4m. Thân cọc tràm phải thẳng để hạn chế khả năng uốn dọc khi chịu tải trọng. Lõi cọc tràm khi sử dụng phải tươi, không bị mục và không bóc vỏ ngoài. Các cọc tràm trước khi dùng phải được tưới ẩm và dưỡng hộ theo các quy định cụ thể trong quy trình thi công.
I.6 - Cọc tràm chỉ được dùng trong trường hợp móng cọc đài thấp và chủ yếu chịu tải trọng thẳng đứng là chính, không thích hợp đối với móng cọc đài cao khi có tải trọng ngang tác dụng.
I.7 - Cọc tràm không nên dùng ở những nơi xảy ra hiện tượng động đất và xuất hiện các dạng đất hoàng thổ có tính lún ướt.

II - CÁC YÊU CẦU CHUNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC KHẢO SÁT
II.1 - Các yêu cầu chung đối với công tác khảo sát khi thiết kế các công trình trên móng cọc tràm cũng giống như các loại cọc khác, được quy định trong tiêu chuẩn 20TCN 160 : 87 cũng như trong tiêu chuẩn 20TCN 21 : 86 của bộ xây dựng.
II.2 - Căn cứ vào đặc điểm các loại công trình dân dụng và công nghiệp cũng như các loại công trình khác với quy mô vừa và nhỏ khi dùng các loại cọc tràm có đường kính nhỏ ( 8 ÷ 10 cm ) và chìều dài không lớn ( 3 ÷ 5m ), công tác khảo sát sẽ bao gồm 3 nội dung chính : khảo sát địa hình, khảo sát địa chất công trình và thí nghiệm nén tĩnh cọc tràm ở ngoài hiện trường.
Công tác khảo sát địa hình sẽ tuân theo các quy định chung của Bộ xây dựng đối với công tác
thiết kế, còn công tác khảo sát địa chất công trình sẽ tập trung vào mấy khâu quan trọng sau đây
+ Số lỗ khoan không nên ít hơn 2 và với chiều sâu khảo sát từ 15 ÷ 20m theo yêu cầu của cơ
quan thiết kế.
+ Thí nghiệm xuyên tĩnh và xuyên động tùy theo loại đất không nên ít hơn 5 hố. + Thí nghiệm nén tĩnh cọc tràm không nên ít hơn 2.
Đối với các loại đất bùn, đất than bùn và than bùn có thể tiến hành thí nghiệm cắt chữ thập và thí nghiệm nén ngang trong lỗ khoan tùy theo yêu cầu của cơ quan thiết kế nếu thấy cần thiết.
II.3 - Công tác thí nghiệm xác định các chỉ tiêu cơ lý của đất ở trong phòng cũng như ở ngoài hiện
trường phải được tiến hành theo các quy định và chỉ dẫn hiện hành.
II.4 - Công tác thí nghiệm nén tĩnh cọc tràm ở ngoài hiện trường về nguyên tắc cũng được tiến hành
giống như đối với các cọc bêtông cốt thép có tiết diện nhỏ theo như các chỉ dẫn hiện hành.

III-NHỮNG CHỈ DẪN CHUNG VỀ TÍNH TOÁN VÀ THIẾT KẾ CỌC TRÀM VÀ MÓNG CỌC TRÀM
III.1 – Cũng giống như móng cọc gỗ và móng cọc bêtông cốt thép, móng cọc tràm và nền dưới móng cọc tràm được tính toán theo các trạng thái giới hạn.
Quy trình tính toán và thiết kế móng cọc tràm
III.2 – Đài cọc tràm có thể cấu tạo bằng gạch, đá hộc, bêtông đá hộc, bêtông và bêtông cốt thép tùy theo quy mô công trình, tình hình địa chất và địa chất thủy văn ở khu vực xây dựng.
Nếu vật liệu đài cọc làm bằng gạch và đá hộc, thì việc xác định chiều cao đài và kiểm tra độ bền của đài sẽ căn cứ vào các quy định chung của Tiêu chuẩn thiết kế kết cấu gạch đá.
Đối với đài cọc làm bằng vật liệu bêtông đá hộc, bêtông và bêtông cốt thép, khi cấu tạo đài cũng như xác định lượng cốt thép cần thiết sẽ dựa vào Tiêu chuẩn thiết kế các cấu kiện bêtông và bêtông cốt thép hiện hành.
III.3 – Tùy theo điều kiện làm việc của cọc tràm đóng trong đất và tùy theo sơ đồ cấu tạo địa chất, cọc tràm sẽ được phân chia thành hai loại : cọc chống và cọc ma sát ( cọc treo ).
Nếu mũi cọc tràm tựa lên trên các loại đất hòn lớn, sỏi, cuội, cát to ở trạng thái chặt hoặc tựa trên các loại đất dính ( sét, sét pha cát, cát pha sét ) ở trạng thái cứng thì có thể xem cọc tràm là loại cọc chống, lúc đó sức kháng của đất ở dưới mũi cọc đóng vai trò chủ yếu và lực ma sát ở xung quanh thân cọc xem như bỏ qua.
Trong trường hợp này, cọc tràm cần được kiểm tra độ bền và khả năng uốn dọc khi chịu tải trọng giống như cọc gỗ hay cọc bêtông cốt thép.
Các trường hợp còn lại, cọc tràm được tính toán giống như cọc ma sát, trong đó khả năng chịu tải của cọc đều dựa vào lực ma sát của đất ở xung quanh thân cọc vá sức kháng của đất ở dưới mũi cọc.
III.4 – Tùy theo mật độ của cọc tràm đóng trong loại đất yếu thích hợp mà khoảng cách giữa các cọc sẽ khác nhau. Để tiện thi công, thông thường các cọc được bố trí theo lưới hình ô vuông. Khoảng cách giữa các cọc có thể tham khảo trong bảng 3 – 1 phần phụ lục của Quy trình này.
III.5 – Tùy theo từng loại công trình, tính chất tác dụng của tải trọng và sơ đồ địa chất, móng cọc tràm được tính theo trạng thái giới hạn thứ nhất ( theo khả năng chịu tải ) hoặc theo trạng thái giới hạn thứ hai ( theo điều kiện biến dạng ) hoặc cả hai trạng thái giới hạn trên.
Đối với các công trình dân dụng và công nghiệp cũng như các công trình khác ( trừ các công trình có tầng hầm và hầm ngầm ) chủ yếu chịu tải trọng thẳng đứng thì móng cọc tràm được tính toán theo trạng thái giới hạn thứ hai. Khi đó, trong tính toán sẽ dùng tổ hợp tải trọng cơ bản ứng với các tải trọng và đặc trưng đất nền tiêu chuẩn.
Khi công trình thường xuyên chịu tải trọng ngang tác dụng, các công trình xây trên bờ dốc và mái dốc, các công trình xây trên lớp đất yếu ( cát nhỏ, cát bụi ở trạng thái bão hòa nước, các loại đất dính bão hòa nước, các loại đất than bùn và than bùn ), các công trình xây trên nền đất mà dưới đó là nền đá thì cần được tính toán theo trạng thái giới hạn thứ nhất ứng với tổ hợp tải trọng cơ bản và đặc biệt. Các đại lượng tải trọng và đặc trưng đất nền được xác định theo giá trị tính toán.
Việc xác định các loại tổ hợp tải trọng và các đặc trưng đất nền phục vụ cho việc tính toán nền móng cọc tràm sẽ tuân theo các quy định và chỉ dẫn trong các tiêu chuẩn hiện hành.
III.6 – Để tiến hành tính toán móng cọc tràm theo trạng thái giới hạn thứ nhất, cần xác định sức chịu tải của cọc tràm, kiểm tra khả năng chịu tải của nền đất ở dưới mũi cọc tràm và trên mặt lớp đất yếu dưới sâu trong phạm vi chịu nén ( vùng ảnh hưởng gây ra lún ), kiểm tra ổn định trượt phẳng, trượt sâu và ổn định lật đối với các công trình chịu tải trọng ngang lớn.
Khi tính toán móng cọc tràm theo trạng thái giới hạn thứ hai, cần kiểm tra độ lún ổn định ( độ lún cuối cùng ), hiệu số lún, tốc độ lún và độ nghiêng của móng hoặc công trình.
Cũng cần lưu ý rằng, nếu có các phụ tải tác dụng ở xung quanh móng ( do đất đắp, do các công trình lân cận ) hoặc do khai thác nước ngầm…, trong tính toán và thiết kế móng cọc tràm cần xét đến ảnh hưởng của ma sát âm.
IV – TÍNH TOÁN CỌC TRÀM THEO KHẢ NĂNG CHỊU TẢI.
IV.1 – Sức chịu tải tính toán của cọc tràm đơn theo điều kiện vật liệu được xác định theo biểu thức :
Pd=0,6FcRng ( 4 – 1 )
Trong đó :
Fc – diện tích tiết diện ngang của cọc tràm;
Rng– cường độ chịu nén tính toán dọc thớ của gỗ tràm ( phần lõi ), có thể lấy bằng trị số giới thiệu ở bảng 4.1 của phụ lục.
IV.2 – Sức chịu tải tính toán của cọc tràm đơn theo điều kiện đất nền được xác định như sau :
IV.2.1 – Đối với cọc tràm làm việc giống như cọc chống, trị số Pđ được tính toán theo công thức :
Quy trình tính toán va thiết kế móng cọc tràm
Pđ = Pgh/K1 ( 4 – 2 )
Trong đó :
Pgh=RcFc ( 4 – 3 )
Rc – sức kháng tính toán của đất dưới mũi cọc.
Khi không có số liệu thí nghiệm khảo sát ở địa điểm xây dựng, trị số Rc có thể sơ bộ lấy các giá trị ở trong bảng 4 – 2 phần phụ lục.
Trường hợp có các số liệu thí nghiệm ở trong phòng do khoan khảo sát hoặc không có số liệu trong bảng 4 – 2, trị số Rc có thể xác định sơ bộ theo công thức :
Rc=1,3.c.Nc+y.l.Nq+0,6. y.dc/2.N.
Trong đó :
l : chiều dài cọc tràm ,
Nc; Nq; Ny.: tra bảng 4 – 3 phụ lục.
c : lực dính đơn vị ( T/m2 )
dc : đường kính cọc tràm
y: trọng lượng thể tích của đất nền ở độ sâu mũi cọc ( T/m3

Buộc phê duyệt quy trình bảo trì trước khi nghiệm thu công trình

Buộc phê duyệt quy trình bảo trì trước khi nghiệm thu công trình
(22:53, 09/12/2010)

(LuatVietnam) Điều này được quy định tại Nghị định số 114/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/12/2010 về bảo trì công trình xây dựng.

Theo đó, nhà thầu thiết kế xây dựng công trình có trách nhiệm lập và bàn giao cho chủ đầu tư quy trình bảo trì công trình, bộ phận công trình do mình thiết kế; nhà thầu cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình có trách nhiệm lập và ban giao cho chủ đầu tư quy trình bảo trì đối với thiết bị do mình cung cấp trước khi lắp đặt vào công trình.
Chủ đầu tư có trách nhiệm tiếp nhận quy trình bảo trì do nhà thầu thiết kế xây dựng công trình và nhà thầu cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình; tổ chức thẩm định và phê duyệt quy trình bảo trì công trình trước khi nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng.

Đối với từng công trình dân dụng cấp IV, nhà ở riêng lẻ và công trình tạm không bắt buộc phải lập quy trình bảo trì riêng nhưng chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền vẫn phải thực hiện bảo trì công trình theo quy định.

Nghị định cũng quy định rõ, khi phát hiện bộ phận công trình hoặc công trình có biểu hiện xuống cấp về chất lượng, không đảm bảo an toàn cho việc khai thác, sử dụng thì chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền phải kiểm tra công trình hoặc kiểm định chất lượng công trình; quyết định thực hiện các biện pháp an toàn (như hạn chế, ngừng sử dụng công trình...); sửa chữa những hư hỏng có nguy cơ làm ảnh hưởng đến an toàn sử dụng, an toàn vận hành của công trình.

Đồng thời, chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền phải báo cáo hàng năm về việc thực hiện bảo trì công trình vì sự an toàn của công trình đối với công trình từ cấp II trở lên và các công trình khi xảy ra sự cố có thể gây thảm họa theo quy định của pháp luật về quản lý chất lượng CTXD với cơ quan Nhà nước. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với các Bộ chuyên ngành tổ chức kiểm tra việc tuân thủ quy định bảo trì công trình của chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền theo 2 chế độ kiểm tra: Kiểm tra xác suất đối với tất cả các công trình; kiểm tra định kỳ tối thiểu 5 năm 1 lần đối với công trình từ cấp II trở lên và công trình khi xảy ra sự cố có thể gây thảm họa theo quy định của pháp luật về chất lượng công trình xây dựng...

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20/01/2011; bãi bỏ các quy định về bảo trì công trình tại Chương VII Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng.